PGS-TS Nguyễn Thành Vinh, Trưởng phòng Sau ĐH Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho biết: Vài năm gần đây, số lượng học viên học cao học lấy bằng thạc sĩ các ngành thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục và đào tạo GV tại trường tăng lên đáng kể. Chẳng hạn, năm 2023 là 383 thạc sĩ, tăng 35 - 37% so với năm 2022 (277 học viên), năm 2024 chỉ tiêu trường đặt ra cho các ngành đào tạo GV là 443, tăng 15% so với năm trước.
PGS-TS Nguyễn Thành Vinh, Trưởng phòng Sau ĐH Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho biết: Vài năm gần đây, số lượng học viên học cao học lấy bằng thạc sĩ các ngành thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục và đào tạo GV tại trường tăng lên đáng kể. Chẳng hạn, năm 2023 là 383 thạc sĩ, tăng 35 - 37% so với năm 2022 (277 học viên), năm 2024 chỉ tiêu trường đặt ra cho các ngành đào tạo GV là 443, tăng 15% so với năm trước.
Giáo viên mầm non có bằng thạc sĩ sẽ được giảm thời gian giữ hạng liền kề 3 năm khi thi (xét) thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng II lên hạng I.
Khoản 4 Điều 10 văn bản hợp nhất Thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường mầm non quy định:
"Trường hợp giáo viên dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng I (mã số V.07.02.24) nếu đã có bằng thạc sĩ trở lên đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo của giáo viên mầm non hạng I và có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng II (mã số V.07.02.25) hoặc tương đương đủ từ 06 (sáu) năm trở lên tính đến ngày hết thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng thì được xác định là đủ yêu cầu về thời gian giữ hạng theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 5 Thông tư này."
Thầy Cao Hữu Hạnh, GV môn vật lý Trường THPT Trương Định (Tiền Giang), tốt nghiệp thủ khoa ngành sư phạm vật lý - công nghệ Trường ĐH Cần Thơ năm 2017, cho biết bắt đầu học thạc sĩ ngành vật lý nguyên tử hạt nhân của Trường ĐH Sư phạm TP.HCM từ tháng 11.2022, hết năm nay thì tốt nghiệp.
Thầy Cao Hữu Hạnh, giáo viên môn vật lý Trường THPT Trương Định (Tiền Giang), cùng các học trò
Thầy Hạnh cho biết: "Thông thường GV đi học ngành phương pháp giảng dạy để cập nhật và ứng dụng nhiều phương pháp dạy học mới để phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh, đáp ứng các mục tiêu cần đạt của chương trình GDPT 2018. Tôi yêu thích việc nghiên cứu khoa học nên chọn ngành vật lý nguyên tử hạt nhân. Đây cũng là một ngành học liên quan nhiều đến môn dạy".
Từ kiến thức học thạc sĩ, thầy Hạnh cũng có thể tự tin trong việc giảng dạy các chương liên quan trong sách giáo khoa vật lý THPT nói chung và chương "vật lý lượng tử" nói riêng, cũng như các nội dung khác có liên quan đến ngành học.
"Việc nâng cao kiến thức chuyên ngành này giống như một người leo núi, leo được càng cao thì nhìn xuống sẽ thấy cảnh quan bao la và tổng quát hơn. Nó giúp ích trong việc vận dụng kiến thức từ hàn lâm vào đời sống để làm phong phú thêm tư liệu giảng dạy. Tôi thấy các em có hứng thú hơn khi học và nhớ bài lâu hơn", thầy Hạnh chia sẻ.
Trong khi đó, cô Mai Thị Châu, GV lớp 5 Trường Tiểu học Bành Văn Trân, hiện đã có bằng thạc sĩ, chia sẻ học nâng cao là vì yêu thích việc học và để có thêm kiến thức, kỹ năng, phương pháp phục vụ công tác giảng dạy.
"Quá trình học thạc sĩ giúp tôi có tư duy rộng mở hơn, cho tôi phương pháp tích cực có thể áp dụng vào việc giảng dạy trên lớp, giúp học trò có kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp tốt hơn mà trước đó mình chưa làm được. Chính vì thế, việc học này không chỉ tốt cho bản thân mà còn mang lại nhiều lợi ích cho học sinh", cô Châu cho hay.
PGS-TS Nguyễn Thành Vinh nhận định việc GV đi học trình độ thạc sĩ hay tiến sĩ ngày càng nhiều là một tín hiệu đáng mừng. "Các thầy cô đã nhận thức được việc "đứng yên là tụt hậu, không tiến nghĩa là lùi" nên tự đầu tư thời gian, công sức và tiền bạc để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, phát triển tư duy... Điều này sẽ góp phần cho chất lượng dạy và học ở các bậc học ngày càng được nâng cao", ông Vinh chia sẻ.
Theo luật Giáo dục 2019, trình độ chuẩn của nhà giáo là có bằng tốt nghiệp CĐ sư phạm trở lên đối với GV mầm non, có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo GV trở lên đối với GV tiểu học, THCS, THPT. Chỉ nhà giáo giảng dạy trình độ ĐH mới yêu cầu có bằng thạc sĩ.
Tuy nhiên, đối với GV THPT đã có bằng thạc sĩ mới thi đậu viên chức, thì sẽ được xếp hệ số lương là 2.67. Đây là một ưu điểm cho những sinh viên sư phạm mới ra trường mà học luôn thạc sĩ sau đó mới thi viên chức (quy định tại điều 23 Nghị định 115/2020). Vì nếu sinh viên sư phạm mới ra trường, thi đậu viên chức mà chưa có bằng thạc sĩ, thì hệ số lương chỉ là 2.34 và phải tập sự 12 tháng, đồng thời công tác thêm 3 năm nữa, nghĩa là tổng cộng 4 năm, thì mới được hệ số 2.67.
Như vậy, khi thi tuyển viên chức, nếu GV đã có bằng thạc sĩ, sẽ có lợi thế cho việc xếp hệ số lương. Còn GV đã là viên chức sau đó mới đi học và có bằng thạc sĩ thì mức lương không có gì thay đổi.
"Đây cũng là một thiệt thòi. GV có trình độ thạc sĩ dù học sau khi đã là viên chức, nếu được nâng lương thì vẫn tốt hơn", ông Trần Tâm nhận định.
Tuy nhiên, bằng thạc sĩ còn có giá trị đối với việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp. Theo đó, GV mới ra trường sau khi thi đậu viên chức có chức danh nghề nghiệp hạng III. Khi công tác lâu năm trong ngành, nếu đủ điều kiện và đủ thâm niên thì sẽ nộp hồ sơ để xét thăng hạng II (hệ số lương 4.0 đến 6.38). Nếu muốn thăng hạng I (hệ số lương 4.40 đến 6.78) thì ngoài điều kiện đủ số năm giữ ngạch hạng II còn phải đảm bảo một số tiêu chí khác, trong đó có tiêu chí bằng thạc sĩ.
Giáo viên trung học cơ sở, trung học phổ thông hạng III có bằng thạc sĩ sẽ được giảm thời gian giữ hạng 3 năm khi thi/xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng II lên hạng I.
Khoản 4 Điều 10 văn bản hợp nhất Thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học cơ sở công lập quy định:
"Trường hợp giáo viên dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng II (mã số V.07.04.31) nếu đã có bằng thạc sĩ đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo của giáo viên trung học cơ sở hạng II và có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng III (mã số V.07.04.32) hoặc tương đương đủ từ 06 (sáu) năm trở lên (không kể thời gian tập sự) tính đến ngày hết thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng thì được xác định là đủ yêu cầu về thời gian giữ hạng theo quy định tại điểm k khoản 4 Điều 4 Thông tư này".
Cùng với đó, khoản 2 Điều 9 văn bản hợp nhất Thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học phổ thông công lập quy định:
Trường hợp giáo viên dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng II (mã số V.07.05.14) nếu đã có bằng thạc sĩ, đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo của giáo viên trung học phổ thông hạng II và có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng III (mã số V.07.05.15) hoặc tương đương đủ từ 06 (sáu) năm trở lên (không kể thời gian tập sự) tính đến ngày hết thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng thì được xác định là đủ yêu cầu về thời gian giữ hạng theo quy định tại điểm i khoản 4 Điều 4 Thông tư này.
Giáo viên mầm non hạng I, mã số V.07.02.24, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm A2.2, từ hệ số lương 4,0 đến hệ số lương 6,38 (còn giáo viên mầm non hạng II, mã số V.07.02.25, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98. Giáo viên mầm non hạng III, mã số V.07.02.26, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A0, từ hệ số lương 2,10 đến hệ số lương 4,89).
Giáo viên tiểu học hạng II, mã số V.07.03.28, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm A2.2, từ hệ số lương 4,00 đến hệ số lương 6,38 (còn giáo viên tiểu học hạng III, mã số V.07.03.29, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98).
Giáo viên trung học cơ sở hạng II, mã số V.07.04.31, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm A2.2, từ hệ số lương 4,00 đến hệ số lương 6,38 (còn giáo viên trung học cơ sở hạng III, mã số V.07.04.32, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98).
Giáo viên trung học phổ thông hạng II, mã số V.07.05.14, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm A2.2, từ hệ số lương 4,0 đến hệ số lương 6,38 (còn giáo viên trung học phổ thông hạng III, mã số V.07.05.15, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98).
Mới đây, Bộ GD-ĐT thông tin: Quy mô đào tạo thạc sĩ có xu hướng tăng đều trở lại ở tất cả khối ngành. Trong đó, tăng mạnh nhất là khối ngành đào tạo giáo viên (GV), tăng 3.353 học viên thạc sĩ (34,79%) so với năm 2023. Ở bậc tiến sĩ, tăng 350 nghiên cứu sinh (51,32%)...