Hằng năm, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đào tạo khoảng 4000-5000 học viên cho các doanh nghiệp theo hình thức trực tiếp và online. Tuy sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể, nhưng hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn. Theo TS Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam điều này xuất phát từ cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Hằng năm, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đào tạo khoảng 4000-5000 học viên cho các doanh nghiệp theo hình thức trực tiếp và online. Tuy sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể, nhưng hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn. Theo TS Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam điều này xuất phát từ cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Tác giả: P.N.Hằng
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng.
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện). 1. Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng) Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh).Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
Hộp 1 - Tại sao doanh nghiệp cần biết về các loại trợ cấp?
Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp này (bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu) từ thời điểm gia nhập. Riêng đối với các ưu đãi đầu tư (ưu đãi về thuế) dựa trên tiêu chí thành tích xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hoá mà cơ quan Nhà nước đã cho phép doanh nghiệp được hưởng từ trước ngày gia nhập WTO thì sẽ được tiếp tục thực hiện cho đến hết 5 năm kể từ ngày gia nhập.
Hộp 2 - Kiện chống trợ cấp quy định ở đâu? Các vấn đề về trình tự, thủ tục kiện chống trợ cấp và các điều kiện áp dụng biện pháp đối kháng được quy định tại:
Để có các kiến thức chung về kiện chống trợ cấp, doanh nghiệp có thể tìm thông tin tại Hiệp định SCM. Tuy nhiên, để phục vụ các vụ kiện cụ thể tại mỗi nước, doanh nghiệp cần tiếp cận pháp luật về chống trợ cấp của nước đó.
Hộp 3 – Xác định lượng nhập khẩu “không đáng kể” (trong vụ kiện chống trợ cấp) như thế nào? Giả sử Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ và Campuchia (là các nước đang phát triển) cùng với nhiều nước khác cùng nhập khẩu một mặt hàng X vào nước Y. Trong đó:
Nếu ngành sản xuất mặt hàng X của nước Y định kiện chống trợ cấp đối với mặt hàng X chỉ của Việt Nam nhập khẩu vào Y thì đơn kiện sẽ bị bác hoặc nếu vụ kiện đã khởi xướng thì cũng sẽ bị đình chỉ do Việt Nam là nước đang phát triển và có lượng nhập khẩu mặt hàng X vào nước Y ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng X từ tất cả các nguồn vào Y Nếu vụ kiện chống lại Việt Nam và Trung Quốc thì cũng theo tiêu chí này, vụ việc có thể sẽ tiếp tục với hàng Trung Quốc nhưng phải chấm dứt với hàng Việt Nam Tuy nhiên nếu vụ kiện tiến hành chống lại cả Việt Nam, Campuchia, Ấn Độ và Trung Quốc thì vụ kiện sẽ được tiến hành bình thường với tất cả 4 nước này vì tổng lượng nhập khẩu hàng X vào nước Y từ 3 nước Việt Nam, Ấn Độ, Campuchia (các nước đang phát triển có lượng nhập trong tổng lượng nhập hàng X vào Y dưới 4%) là 10,5% (cao hơn mức 9% theo quy định).
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: (i) Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện; và (ii) Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong nước.
Hộp 4 – Ví dụ về điều kiện khởi kiện của ngành sản xuất nội địa nước xuất khẩu Giả sử ngành sản xuất mặt hàng A của nước B muốn kiện các nhà xuất khẩu Việt Nam vì đã bán mặt hàng A được trợ cấp vào nước B. Nếu ngành sản xuất mặt hàng A của nước B có tổng cộng 5 nhà sản xuất (NSX), trong đó:
Nếu NSX 4 (15%) khởi kiện, các NSX 1 (9%), 2 (5%), 3 (15%) đều bày tỏ ý kiến về việc khởi kiện này và NSX 5 (56%) không có ý kiến gì thì:
Hộp 5 - Chính sách phòng ngừa và đối phó với các vụ kiện chống trợ cấp ở nước ngoài
+ Phối hợp, liên kết với các doanh nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối phó chung đối với các vụ kiện có thể xảy ra; + Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để được hướng dẫn và có thông tin cần thiết
Hộp 55 - Một số biện pháp “kỹ thuật” để sẵn sàng đối phó với các vụ kiện chống trợ cấp
Nội dung: Các quy định về chống trợ cấp ở Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO về vấn đề này. Cơ quan có thẩm quyền
Hộp 6 - Doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin và hỗ trợ về chống trợ cấp ở đâu?
Tác giả: Phạm Nguyệt Hằng (tổng hợp)
Tham dự hội nghị có gần 100 đại biểu đến từ các doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh tại Quảng Ngãi, đại diện các Phòng ban của Sở Lao động, đại diện Hội doanh nghiệp tỉnh, Đoàn luật sư, một số chi hội doanh nghiệp các huyện, các luật sư, luật gia, cộng tác viên tham gia mạng lưới TVPL, Đại diện lãnh đạo Trung tâm hỗ trợ pháp luật và phát triển nguồn nhân lực và Lãnh đạo Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Quảng Ngãi và chuyên gia đến từ Hội khoa học kỹ thuật an toàn Vệ sinh lao động Việt Nam đồng chủ trì hội nghị.
Hội nghị đã được nghe đại diện lãnh đạo Trung tâm hỗ trợ pháp luật và phát triển nguồn nhân lực, thành viên Ban soạn thảo và Tổ Biên tập Nghị định, trình bày về quá trình xây dựng và ban hành Nghị định số
ngày 24/6/2019 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ – CP, theo đó Nghị định được ban hành trên cơ sở căn cứ vào khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định: các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật. Trên cơ sở đó Luật đã giao Chính phủ hướng dẫn thi hành điều này.
Một trong những nội dung quan trọng của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là việc Thiết lập mạng lưới TVPL cho doanh nghiệp, hoạt động này sẽ được căn cứ và cả Nghị đinh số 55/2019/NĐ CP và Nghị định số 39/2018/NĐ –CP về hướng dẫn một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và thông tư số 06/TT – BKHĐT ngày 29/3/2019 hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động của mạng lưới tư vấn viên; hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua mạng lưới tư vấn viên theo quy định tạ
ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Sau khi nghe giới thiệu những nội dung mới về Nghị định
ngày 24/6/2019 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Thông tư 06/TT – BKHĐT ngày 29/3/2019 hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động của mạng lưới tư vấn viên; hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua mạng lưới tư vấn viên, các đại biểu và tư vấn viên đã thảo luận chuyên đề “
Mở đầu chuyên đề, Đại diện Sở Lao động, Thương binh và xã hội tỉnh Quảng Ngãi đã có báo cáo về tình hình công tác ATVSLĐ của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, trong đó với tốc độ phát triển nhanh, số lượng lao động lớn, nhiều năm qua, Quảng Ngãi hết sức coi trọng công tác ATVSLÐ. Quảng Ngãi đã triển khai nhiều hoạt động truyền thông, tuyên truyền giáo dục pháp luật về ATVSLÐ đến các doanh nghiệp, người lao động và đông đảo người dân nhằm nâng cao nhận thức, ý thức của mọi người trong việc tuân thủ chính sách, pháp luật. Hưởng ứng Tháng hành động về ATVSLÐ năm 2019 (từ ngày 1 đến 31-5), với chủ đề "Tăng cường đánh giá, quản lý các nguy cơ rủi ro về an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc", Quảng Ngãi đã yêu cầu các cấp, ngành, đơn vị liên quan tổ chức nhiều hoạt động hiệu quả, thiết thực hướng về doanh nghiệp, cơ sở lao động và người lao động trong cả khu vực có hợp đồng và lao động tự do. Thời gian tới, Sở Lao động sẽ phối hợp với các đại diện doanh nghiệp sẽ tập trung tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao hơn nữa ý thức của người lao động, chủ sử dụng lao động trong công tác ATVSLÐ, phòng ngừa nguy cơ TNLÐ trong sản xuất, kinh doanh. Ðồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm chính sách pháp luật về ATVSLÐ; tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm ATVSLÐ. Thực tế cho thấy, hầu hết các vụ TNLÐ trong đều do chủ đầu tư và người lao động chưa tuân thủ nghiêm các quy định về an toàn lao động. Doanh nghiệp để xảy ra TNLÐ thường vi phạm "ba không", đó là không xây dựng quy trình, biện pháp an toàn khi làm việc; không huấn luyện hoặc huấn luyện ATLÐ chưa đầy đủ cho người lao động; không có thiết bị bảo đảm an toàn. Còn với khu vực lao động tự do, công tác bảo đảm ATVSLÐ thường bị "bỏ qua", nhất là tại các công trình xây dựng. Mặt khác, việc các doanh nghiệp, chủ đầu tư được báo trước khi có các đoàn thanh tra đến cũng là nguyên nhân gián tiếp khiến TNLÐ gia tăng, bởi không ít sai sót trong công tác bảo đảm an toàn lao động đã bị bưng bít, che đậy; đồng thời làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra thanh tra.
Trên cơ sở các nội dung trình bày của Sở Lao động TB&XH tỉnh Quảng Ngãi và chuyên gia, các đại biểu đã thảo luận, phản ánh và đặt ra câu hỏi, với các chuyên gia và tư vấn viên. Trên cơ sở các quy định của pháp luật có liên quan và tình hình thực tiễn ở địa phương các chuyên gia và các tư vấn viên đã có những câu trả lời xác đáng, đáp ứng một phần yêu cầu của đại biểu dự hội nghị đối thoại. Các đại biểu đánh giá cao về chất lượng tổ chức cũng như nội dung của hội nghị./.
Cá nhân, tổ chức quan tâm có thể tải file tài liệu đính kèm để tham khảo
Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm tới trên 97% tổng số các doanh nghiệp. Quy mô nhỏ và vừa, năng lực quản trị, năng lực sản xuất, năng lực pháp lý thấp, đồng nghĩa với đó là năng lực cạnh tranh thấp. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV, không thể thiếu việc nâng cao năng lực pháp lý. Đối với các doanh nghiệp lớn, vấn đề pháp lý đã quan trọng, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vấn đề này lại càng quan trọng. Vậy, năng lực pháp lý và nhu cầu hỗ trợ pháp lý của các DNNVV hiện nay như thế nào? Hiện nay cả nước có gần 630 nghìn doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động. Khảo sát cho thấy, nhu cầu về hỗ trợ pháp lý ngày càng cao, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng buộc các doanh nghiệp Việt phải nâng cao năng lực pháp lý. Vậy, trong bối cảnh này, việc hỗ trợ pháp lý có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp? Đâu là những khó khăn, hạn chế của công tác hỗ trợ pháp lý trong thời gian vừa qua? Xung quanh vấn đề này, phóng viên Chương trình Kinh doanh và Pháp luật có cuộc trao đổi với Bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật và hỗ trợ nguồn nhân lực – Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, PGS. TS Dương Đăng Huệ - Giám đốc Trung tâm Thông tin, tư vấn pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ trực thuộc Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp, Ông Nguyễn Văn Lý - Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Nam Định để giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Phóng viên hỏi: Thưa Bà Nguyễn Thị Thanh Bình, đối với các doanh nghiệp lớn, vấn đề pháp lý đã quan trọng, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vấn đề này lại càng quan trọng. Vậy, dưới góc độ Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bà đánh giá như thế nào về nhu cầu hỗ trợ pháp lý của khối doanh nghiệp này? Trả lời: Về nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật: Đối với các DNNVV, việc nắm bắt kịp thời những thông tin, thực hiện đúng những quy định của pháp luật là hết sức cần thiết và tùy vào từng lĩnh vực kinh doanh, chiến lược phát triển và nhu cầu của chủ sở hữu, người quản lý hoặc các thành viên sáng lập Công ty mà nhu cầu tiếp cận về pháp luật có mức độ khác nhau. Việc tiếp cận văn bản pháp luật, am hiểu và thực thi theo đúng pháp luật của DN tác động rất lớn đến chiến lược phát triển, giúp phòng, tránh rủi ro trong kinh doanh. - Về Nhu cầu được bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh: Hiện nay đa phần hoạt động liên quan đến thủ tục hành chính, xin giấy phép, quan hệ với cơ quan QLNN do do chính DN thực hiện, ít khi DN sử dụng các DN sử dụng dịch vụ luật sư, phần lớn tự tìm kiếm thông tin trên mạng internet hoặc trên báo chí và khó sàng lọc thông tin, dẫn đến việc có những quyết định mang nhiều tính tâm lý, chủ quan nên rủi ro cao. - Về nhu cầu được giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp:Trong quá trình kinh doanh, DN phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính, từ thành lập đến tiếp xúc với các cơ quan thuế, cơ quan quản lý chuyên ngành như ATTP, PCCC, bảo vệ môi trường…. Từ đó, giải đáp pháp luật là nhu cầu phát sinh từ những người thực hiện luật dù ở vị trí chủ động (công chức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước) hay bị động (DN kinh doanh). Do đó, xét về mặt lý thuyết nhu cầu được công chức nhà nước hướng dẫn, giải đáp pháp luật là nhu cầu tất yếu. - Về nhu cầu tư vấn pháp luật. Trong quá trình hoạt động DN cũng luôn gặp phải những tranh chấp, rủi ro pháp lý phát sinh, hoặc những sự kiện pháp lý mà DN không tự giải quyết được hoặc không đủ thời gian đi thực hiện, từ đó phát sinh nhu cầu tư vấn pháp luật từ và ủy quyền thực hiện các dịch vụ pháp lý, thủ tục hành chính cũng phát sinh. Phóng viên hỏi: Vậy, để hỗ trợ đúng và trúng nhu cầu pháp lý của doanh nghiệp, giải pháp đặt ra ở đây là gì, thưa Bà? Trả lời: Để thực hiện được, chúng ta cần hướng tới các giải các giải pháp sau. 1. Về thể chế: Cần cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng về hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân thành các văn bản pháp luật của Nhà nước, trước mắt cần có hướng dẫn thực hiện Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời kiến nghị Chính phủ sửa đổi Nghị định 66/2008/NĐ ngày 28/5/2008 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cho phù hợp với tình hình thực tiễn trong điều kiện mới. 2. Về Quản lý nhà nước: Tăng cường đội ngũ cán bộ pháp chế thuộc các Sở ngành địa phương để đảm bảo cho công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, thống nhất việc thống kê số liệu báo cáo về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp về Sở Tư pháp để thống nhất đầu mối quản lý nhà nước, đồng thời đổi mới phương thức lập đề án, lập kế hoạch giao kinh phí và quyết toán kinh phí thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa thủ tục. Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan có trách nhiệm kiểm tra hướng dẫn các tổ chức đại diện doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ và đạt hiệu quả tốt nhất. 3. Đổi mới các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Trong điều kiện hoàn cảnh mới, cần xác định các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có trọng tâm, trong điểm, đúng đối tượng, đúng nhu cầu.Trong thời gian tới, cần tập trung chính vào một số hoạt động sau: - Nâng cao năng lực của tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, Xây dựng chương trình bồi dưỡng, kế hoạch tập huấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, đặc biệt là cán bộ các cấp Hội doanh nghiệp, tạo cho đội ngũ này có một trình độ chuyên môn sâu về công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp. - Xây dựng lại định mức kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp cho phù hợp với thời giá thị trường; khuyến khích việc thúc đẩy hợp tác và lồng ghép giữa hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với các hoạt đông của các chương trình mục tiêu khác và thu hút gắn kết với các chương trình dự án của các tổ chức quốc tế với hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. - Thúc đẩy việc hình thành mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa phương Phóng viên hỏi: Thưa Ông Dương Đăng Huệ, là người tham gia vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Ông đánh giá như thế nào về vai trò, ý nghĩa của hoạt động này đối với cộng đồng doanh nghiệp? Trả lời: Khẳng định vai trò quan trọng của công tác hỗ trợ pháp lý, so sánh với các quốc gia phát triển…; - Đánh giá điểm tích cực của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tuy nhiên, bên cạnh đó, còn nhiều hạn chế… Phóng viên hỏi: Vậy, như Ông vừa chia sẻ, quá trình hỗ trợ pháp lý còn gặp phải không ít khó khăn, hạn chế. Vậy, cụ thể những khó khăn, hạn chế này là gì, thưa Ông? Trả lời: Có 4 hạn chế: - Thứ nhất, tản mạn, chắp vá, không có tính hệ thống - Thứ hai, công tác hỗ trợ pháp lý bị chúng ta thực hiện một cách bị động - Thứ ba, chất lượng chưa cao. Nhiều hình thức, nhiều hoạt động nhưng hiệu quả chưa được phát huy. Lý giải nguyên nhân - Thứ tư, sự phối hợp giữa các đơn vị, cơ quan, tổ chức kém. Ví dụ, hiện nay, điểm yếu nhất trong cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các tổ chức, cơ quan có chức năng thực hiện việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hậu quả là đã xảy ra tình trạng trùng lặp trong các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa là hai tổ chức lớn nhất đại diện cho doanh nghiệp ở nước ta nhưng sự phối hợp hoạt động nói chung và hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói riêng trong thời gian qua là chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, để nâng cao tính hiệu quả, khắc phục tình trạng trùng lặp trong các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, cần phải khắc phục tình trạng biệt lập, không có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Để công tác hỗ trợ pháp lý có thể triển khai hiệu quả thì cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương cho đến địa phương cũng như với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp cần phải được quan tâm hơn nữa trong thời gian tới… Phóng viên hỏi: Thưa Ông, qua gần 10 năm thực hiện, Nghị định 66/2008/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Vậy, đâu là những hạn chế, bất cập nổi bật, thưa Ông? - Lý giải việc chất lượng không cao của NĐ 66 khi ra đời trong bối cảnh cách đây 10 năm… - Bất cập của NĐ 66, ví dụ như, chưa có định nghĩa cụ thể về công tác hỗ trợ pháp lý, phân biệt hỗ trợ pháp lý với các loại hỗ trợ khác…vv - Sắp tới chúng ta sẽ xây dựng một NĐ mới toàn diện, đồng bộ, khắc phục những hạn chế của NĐ 66… Trả lời: Vậy, để khắc phục những bất cập, hạn chế này cũng như nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý, giải pháp đặt ra là gì, thưa Ông? - Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, trước hết là hoàn thiện pháp luật. Ví dụ, khái niệm hỗ trợ pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cơ quan, đơn vị thực hiện, mối quan hệ, sự phối hợp của các chủ thể này như thế nào, ở TW, địa phương như thế nào? Cơ chế hình thành một chương trình hỗ trợ như thế nào? Các hình thức hỗ trợ…Xây dựng, ban hành Nghị định hướng dẫn vấn đề hỗ trợ pháp lý - Thứ hai, công tác thực thi… - Thứ ba, công tác nhân sự… Phóng viên hỏi: Thưa Ông Nguyễn Văn Lý, từ thực tiễn ở địa phương, Ông có thể cho biết thực trạng năng lực pháp lý và nhu cầu hỗ trợ pháp lý của các doanh nghiệp trên địa bàn hiện nay? Trả lời: - Về phía doanh nghiệp: + Thứ nhất, nhận thức về vai trò, ý nghĩa về pháp luật của nhiều chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng tư vấn pháp luật để áp dụng, thi hành và phòng, chống rủi ro trong kinh doanh. + Thứ hai, nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc sử dụng tư vấn pháp luật; hoạt động hỗ trợ của các hiệp hội doanh nghiệp về vấn đề này cũng còn chưa hiệu quả. Thực tế này vì đại đa số các doanh nghiệp hiện nay là nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính eo hẹp. + Thứ ba, các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận với thông tin pháp luật. Điều này đã ảnh hưởng đến sự hiểu biết của người quản lý doanh nghiệp về hệ thống pháp luật kinh doanh. - Về phía Nhà nước: + Thứ nhất, hệ thống các văn bản pháp luật nhiều, chồng chéo, mâu thuẫn, nhiều khi khó thực hiện + Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thi hành pháp luật cho doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là tại các địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp nhiều gặp khó khăn trong tiếp cận với pháp luật. + Thứ ba, nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về các quy định của pháp luật chưa được các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm giải đáp kịp thời, do đó cũng làm cho việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp gặp khó khăn. Phóng viên hỏi: Vậy, về phía địa phương đã triển khai những hoạt động gì để hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp, thưa Ông? Trả lời: Chúng tôi đã thực hiện các hoạt động sau ở địa phương: - Tổ chức đối thoại với doanh nghiệp - Giải đáp pháp luật - Hỗ trợ thông tin qua các kênh khác nhau… - Tuy nhiên, cũng cần sự chủ động từ phía doanh nghiệp.
Tác giả: Trần.T.M.Nguyệt
Hỏi: Doanh nghiệp nước ngoài có được mua và cho thuê nhà tại Việt Nam?
Xin được giải đáp một số quy định về việc mua nhà ở, văn phòng làm việc và quyền cho thuê nhà của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Công ty 100% vốn nước ngoài. Chủ công ty hiện có 2 công ty hoạt động tại Việt Nam. Công ty A chuyên về kế toán – kiểm toán, công ty B chuyên về tư vấn đầu tư tài chính. Trong giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty A không có ngành nghề kinh doanh bất động sản. Trong giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty B có ngành nghề kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu, chủ sử dụng hoặc đi thuê – mã số ngành cấp 3 là 681. Cả 2 công ty có 100% vốn nước ngoài. Người chủ công ty đang muốn một trong hai công ty của mình đứng tên mua 1 tòa nhà văn phòng, hoặc mua 1 nhà ở với mục đích làm trụ sở của công ty, nếu không sử dụng hết thì cho thuê phần diện tích chưa sử dụng. Xin hỏi, công ty A hoặc công ty B có được phép mua nhà ở (công năng của công trình trên đất là nhà ở, hoặc công năng của công trình trên đất là nhà văn phòng) thuộc sở hữu cá nhân người Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài, tổ chức trong nước hoặc tổ chức nước ngoài để làm trụ sở, văn phòng làm việc hay không? Nếu được phép mua nhà ở, thì có được phép chuyển đổi công năng thành văn phòng không? Sau khi đã có quyền sở hữu thì có được phép cho thuê một phần hoặc toàn bộ diện tích căn nhà hay không? Sau một thời gian sở hữu, sử dụng, nếu công ty A hoặc công ty B muốn bán tòa nhà để thu hồi lại vốn thì có được phép bán hay không?
Xin được giải đáp một số quy định về việc mua nhà ở, văn phòng làm việc và quyền cho thuê nhà của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Công ty 100% vốn nước ngoài. Chủ công ty hiện có 2 công ty hoạt động tại Việt Nam. Công ty A chuyên về kế toán – kiểm toán, công ty B chuyên về tư vấn đầu tư tài chính. Trong giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty A không có ngành nghề kinh doanh bất động sản. Trong giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty B có ngành nghề kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu, chủ sử dụng hoặc đi thuê – mã số ngành cấp 3 là 681. Cả 2 công ty có 100% vốn nước ngoài. Người chủ công ty đang muốn một trong hai công ty của mình đứng tên mua 1 tòa nhà văn phòng, hoặc mua 1 nhà ở với mục đích làm trụ sở của công ty, nếu không sử dụng hết thì cho thuê phần diện tích chưa sử dụng. Xin hỏi, công ty A hoặc công ty B có được phép mua nhà ở (công năng của công trình trên đất là nhà ở, hoặc công năng của công trình trên đất là nhà văn phòng) thuộc sở hữu cá nhân người Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài, tổ chức trong nước hoặc tổ chức nước ngoài để làm trụ sở, văn phòng làm việc hay không? Nếu được phép mua nhà ở, thì có được phép chuyển đổi công năng thành văn phòng không? Sau khi đã có quyền sở hữu thì có được phép cho thuê một phần hoặc toàn bộ diện tích căn nhà hay không? Sau một thời gian sở hữu, sử dụng, nếu công ty A hoặc công ty B muốn bán tòa nhà để thu hồi lại vốn thì có được phép bán hay không?
Gửi bởi: [email protected]
Trả lời bởi: P.N.Hằng
1.Quy định gia nhập Đoàn luật sư và thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư.
Đoàn luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Liên đoàn luật sư Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Tại khoản 1 Điều 20 Luật Luật sư năm 2012, quy định:
“1. Người có Chứng chỉ hành nghề luật sư có quyền lựa chọn gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư.
Người đã gia nhập Đoàn luật sư phải làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này tại địa phương nơi Đoàn luật sư có trụ sở.” Nghiên cứu nội dung quy định này, người viết thấy rằng, nếu chỉ dừng lại nội dung quy định người đã gia nhập Đoàn luật sư được thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này tại địa phương nơi Đoàn luật sư có trụ sở là chưa đầy đủ, dễ gây hiểu nhầm. Bởi theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư năm 2012: “Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này;”. Nghĩa là, để thành lập tham gia thành lập văn phòng luật sư; công ty Luật hợp danh; công ty luật trách nhiệm hữu hạn, thì luật sư đó có ít nhất đủ 02 năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư nào đó hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức nào đó. Như vậy, nếu việc gia nhập Đoàn luật sư là điều kiện cần, thì thời hạn ít nhất đủ 02 năm hợp đồng lao động như vừa đề cập là điều kiện đủ để luật sư đăng ký thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư. Do vậy, để bảo đảm chặt chẽ và đầy đủ, tác giả đề xuất nên bổ sung thêm quy định có tính dẫn chiếu đến điểm a khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư năm 2012. Theo đó, khoản 1 Điều 20 Luật Luật sư hiện hành sau khi được sửa đổi, bổ sung, có thể được viết lại như sau: “1. Người có Chứng chỉ hành nghề luật sư có quyền lựa chọn gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư.
Người đã gia nhập Đoàn luật sư phải làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương nơi Đoàn luật sư có trụ sở, nếu thỏa mãn quy định tại điểm a khoản 3 Điều 32 của Luật này.”
Mặt khác, theo quy định đã nêu tại khoản 1 Điều 20 Luật Luật sư năm 2012, khi đã gia nhập Đoàn luật sư tại địa phương nào, thì Luật sư thành viên chỉ phép được đăng ký thành lập tổ chức hành nghề luật sư ở tại địa phương nơi đặt trụ sở của Đoàn luật sư mà mình gia nhập. Quy định này theo người viết đã tạo ra rào cản không cần thiết trong công tác quản lý nói chung. Tác giả xin nêu thực trạng đang tồn tại để minh chứng cho nhận định này: Luật sư A là thành viên Đoàn luật sư TP. HCM, muốn mở Chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư tại tỉnh C để hoạt động, theo quy định hiện hành, trước đó, Luật sư A phải thành lập tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật sư hoặc côn ty luật) có trụ sở đặt tại TP.HCM. Vấn đề ở đây, có thể vì nhiều lý do khác nhau, Luật sư A không muốn phải rời khỏi Đoàn luật sư TP.HCM chuyển đến gia nhập Đoàn luật sư tỉnh C, nên điều bắt buộc Luật sư A phải làm là thành lập tổ chức hành nghề luật sư, có trụ sở đặt tại địa bàn nơi Đoàn luật sư TP.HCM có trụ sở - Đây là điều kiện cần và đủ để Luật sư A xúc tiến thủ tục đề nghị cấp Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh. Việc thành lập tổ chức hành nghề luật sư tại địa bàn nơi có trụ sở Đoàn luật sư TP.HCM chẳng qua là thủ tục bắt buộc theo quy định, sự tồn tại của tổ chức hành nghề luật sư mà Luật sư A thành lập là hình thức, cái chính mà Luật sư A cần là sự hoạt động hợp pháp của Chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư tại tỉnh C, mà không phải chuyển về Đoàn luật sư tỉnh C.
Câu hỏi được đặt ra, tại sao Luật không quy định cho phép Luật sư A là thành viên của Đoàn luật sư TP.HCM được đăng ký thành lập Văn phòng luật sư tại tỉnh C nói riêng, trong phạm vi cả nước nói chung? Vì sao lại quy định có tính chất bó hẹp chỉ trong phạm vi địa hạt nơi có trụ sở của Đoàn luật sư mà Luật sư A là thành viên? Thiết nghĩ, việc bắt buộc tổ chức hành nghề luật sư chỉ có thể được thành lập trên địa bàn có trụ sở của Đoàn luật sư mà Luật sư thành lập tổ chức hành nghề luật sư là thành viên là không cần thiết, dường như quy định này được đặt ra chỉ để quản lý về số lượng tổ chức hành nghề luật sư do thành viên của Đoàn luật sư mình quản lý nhiều hay ít, mà không chỉ ra được tính tất yếu, cần thiết cho nhiệm vụ quản lý, điều này, trong chừng mực nào đó đã gây trở ngại cho hoạt động hành nghề luật sư. Bởi trong điều kiện công nghệ thông tin hiện đại và đa dạng như hiện nay, việc nắm bắt tình hình, hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư thành viên thuộc Đoàn luật sư mình quản lý, Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư có thể thực hiện rất dễ dàng mà không gặp bất kỳ khó khăn hay trở ngại nào. Thông qua công tác phối hợp với Đoàn luật sư nơi Luật sư thành viên của mình thành lập tổ chức hành nghề luật sư; Chi nhánh, Văn phòng đại diện của tổ chức hành nghề luật sư vẫn có thể đánh giá được chất lượng đội ngũ luật sư thành viên của mình; vẫn giám sát được mọi hoạt động của của Luật sư thành viên trong việc chấp hành quy định của pháp luật, tuân thủ Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Mặt khác, theo quy định hiện hành, trên phạm vi địa hạt hành chính cấp tỉnh hiện nay, việc quản lý hành nghề luật sư của các tổ chức hành nghề luật sư do nhiều Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia quản lý thông qua công tác phối hợp với nhau. Tuy nhiên, ngành chức năng chưa có tổng kết đánh giá về hiệu quả tác động lên đối tượng điều chỉnh của quy định bắt buộc tổ chức hành nghề luật sư chỉ được đăng ký hoạt động trong phạm vi địa bàn nơi đặt trụ sở của Đoàn luật sư mà luật sư đăng ký thành lập tổ chức hành nghề luật sư là thành viên. Nhìn lại trường hợp ví dụ trên, rõ ràng đây là sự bất tiện, tốn kém nhiều thời gian, chi phí không thật sự cần thiết, rườm rà về thủ tục, nhất là thủ tục về kê khai thuế, khắc và quản lý con dấu, mà theo đó, phải tiến hành các thủ tục này cho cả Văn phòng luật sư và Chi nhánh của Văn phòng luật sư mà Luật sư A đã thành lập, trong khi đó, chỉ đơn phương có Chi nhánh Văn phòng luật sư tại tỉnh C hoạt động trên thực tế. 2. Theo quy định tại Điều Điều 61 Luật Luật sư năm 2012, Đoàn luật sư có những nhiệm vụ, quyền hạn, như sau:
“1. Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề. 2. Thực hiện rà soát, đánh giá hàng năm chất lượng đội ngũ luật sư; giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát luật sư là thành viên, luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; xử lý kỷ luật đối với luật sư.
3. Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.
4. Cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giám sát người tập sự hành nghề luật sư; lập danh sách những người đủ điều kiện tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam. 5. Nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gửi Sở Tư pháp; đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư. 6. Tổ chức đăng ký việc gia nhập Đoàn luật sư, tổ chức việc chuyển, tiếp nhận luật sư; đề nghị Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư. 7. Thực hiện bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư. 8. Giám sát việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. 9. Hòa giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề luật sư, luật sư với tổ chức hành nghề luật sư; giữa khách hàng với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư. 10. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
11. Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư.
12. Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư. 13. Quy định về mức phí gia nhập Đoàn luật sư, phí tập sự hành nghề luật sư trên cơ sở khung phí do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành. 14. Báo cáo Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về đề án tổ chức đại hội, phương án xây dựng nhân sự Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.
15. Thực hiện nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam. 16. Tổ chức để các luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý.
17. Báo cáo Liên đoàn luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư, kết quả Đại hội; gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định của Đoàn luật sư theo quy định của Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam hoặc khi được yêu cầu.
18. Báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức và hoạt động, kết quả Đại hội; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu; gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực Thuộc trung ương nghị quyết, quyết định, quy định của Đoàn luật sư.
19. Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam.” Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp sai phạm thuộc về đạo đức hành nghề luật sư đến mức rất nghiêm trọng và kéo dài của tổ chức hành nghề luật sư thuộc quyền quản lý của Đoàn luật sư tại địa phương theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Luật sư, nhưng Đoàn luật sư đó không hề hay biết, chỉ khi sự việc ầm ĩ lên, đơn thư tố cáo, khiếu nại từ Ban Tiếp công dân của UBND; Công an; Viện kiểm sát nhân dân; Hội Luật gia chuyển đến hoặc thông qua phản ánh của báo chí,…thì Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư đó mới biết! Điều đó cho thấy, giữa quy định của pháp luật hành nghề luật sư với thực tiễn công tác quản lý hiện nay của các Đoàn luật sư ở địa phương đối với tổ chức hành nghề luật sư thuộc phạm vi giám sát trực tiếp của mình, không ít nơi còn có “khoảng trống”, mà theo tác giả cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Theo quy định, Đoàn luật sư không có quyền kiểm tra mà chỉ có quyền giám sát, phối hợp giám sát hoạt động nói chung của tổ chức hành nghề luật sư; Chi nhánh, Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn Đoàn luật sư đặt trụ sở.
Liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Luật sư năm 2012: Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sáthoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý. Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học Hà Nội - Đà Nẵng, 2005, tr.389:“Giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”.
Giám sát có hai hình thức là giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp. +Giám sát trực tiếp là hình thức giám sát có sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Giám sát trực tiếp thông qua các kỳ họp; theo dõi, nắm tình hình hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, Chi nhánh, Văn phòng giao dịch và thông qua đối thoại, gặp gỡ trao đổi,… Trực tiếp đến các tổ chức hành nghề luật sư, Chi nhánh, Văn phòng giao dịch chỉ đạo thực hiện một vấn đề nào đó. +Giám sát gián tiếp là hình thức giám sát không có sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ thể giám sát với đối tượng giám sát. Giám sát gián tiếp chủ yếu thông qua nghiên cứu các báo cáo, văn bản và phản ảnh của các Đoàn luật sư ở địa phương khác, luật sư nói chung; công dân, cơ quan báo chí đối với Đoàn luật sư mình; qua trao đổi bằng điện thoại, phương tiện truyền thông khác giữa chủ thể giám sát với đối tượng giám sát.. Có thể khẳng định, giám sát là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động quản lý, điều hành, diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình, vì vậy, thực hiện tốt việc giám sát sẽ góp phần ngăn ngừa các nguy cơ dẫn đến sai phạm, khuyết điểm. Từ đó, góp phần đề cao tính thượng tôn pháp luật, chấp hành nghiêm Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Luật sư hiện hành, hiện có các cách hiểu khác nhau.
+Cách hiểu thứ nhất: Để thực hiện chức năng giám sát, Đoàn luật sư phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, Chi nhánh, Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn có trụ sở Đoàn luật sư của mình. Ví dụ: Đoàn luật sư tỉnh C phối hợp với Đoàn luật sư ở các tỉnh khác, giám sát hoạt động hành nghề của các tổ chức hành nghề luật sư, Chi nhánh, Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư bao gồm cả tổ chức hành nghề luật sư được đăng ký thành lập bởi Luật sư thành viên thuộc Đoàn luật sư mình quản lý và cả các tổ chức hành nghề luật sư, Chi nhánh, Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư được đăng ký thành lập do Luật sư thành viên của Đoàn luật sư tỉnh khác, đang hoạt động hành nghề trên địa bàn tỉnh C. Tuy nhiên, cách hiểu này không phù hợp, bởi theo quy định Luật Luật sư hiện hành, tổ chức hành nghề luật sư chỉ được đăng ký thành lập trong phạm vi địa hạt mà Luật sư thành viên của Đoàn luật sư đó có trụ sở. Do vậy, trong thực tế rất khó xảy ra trường hợp Đoàn luật sư của địa phương này giám sát hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư thuộc quyền giám sát của Đoàn luật sư ở địa phương khác, mà Luật sư đăng ký thành lập tổ chức hành nghề luật sư đó không là thành viên của Đoàn luật sư mình. Có chăng sự phối hợp giám sát chỉ đối với Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư thuộc sự giám sát của Đoàn luật sư ở địa phương khác đang hoạt động trên địa bàn mình quản lý của Đoàn luật sư mình mà thôi.
+Cách hiểu thứ hai: Thông qua công tác phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác, Đoàn luật sư có Luật sư thành viên thành lập các tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư, tiến hành hoạt động giám sát hoạt động hành nghề của các tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư đó. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 42 Luật Luật sư năm 2012, Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư được thành lập trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động. Như vậy, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư khi cùng với Đoàn luật sư ở địa phương khác tiến hành giám sát hoạt động hành nghề của Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư là mâu thuẩn. Chẳng hạn, Văn phòng giao dịch của Văn phòng luật sư A đặt tại địa chỉ X thuộc tỉnh C, chắc chắn rằng Văn phòng luật sư A phải có trụ sở trên địa bàn tỉnh C, và đương nhiên, Văn phòng luật sư A được đăng ký thành lập bởi luật sư thành viên của Đoàn luật sư tỉnh C. Như vậy, trong trường hợp này, công tác giám sát hoạt động của Văn phòng luật sư A và Văn phòng giao dịch của Văn phòng luật sư A phải thuộc về Đoàn luật sư tỉnh C, chứ không thể nào Đoàn luật sư tỉnh C phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác để giám sát… như quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Luật sư năm 2012.
Tuy nhiên, với Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư, Luật Luật sư hiện hành không quy định về con dấu của Chi nhánh. Nhưng tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 123/2013/NĐ-CP có quy định:“Sau khi được cấp Giấy đăng ký hoạt động, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư được khắc và sử dụng con dấu của mình theo quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng con dấu.”. Quy định này là bắt buộc, nhưng theo tác giả quy định này là không phù hợp, vì: Một trong những căn cứ chủ yếu ban hành Nghị định 123/2013/NĐ-CP là Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư số 20/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012, mà Luật Luật sư năm 2012 lại không có điều khoản nào quy định Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư phải sử dụng con dấu. Về bản chất, Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư là đơn vị phụ thuộc của tổ chức hành nghề luật sư, hoạt động theo sự ủy quyền của tổ chức hành nghề luật sưphù hợp với lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hoạt động. Tổ chức hành nghề luật sư phải chịu trách nhiệm về hoạt động của Chi nhánh do mình thành lập.
Việc Nghị định 123/2013/NĐ-CP quy định bắt buộc Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư phải có con dấu riêng phải chăng đã bộc lộ sự mâu thuẫn quy định về cùng một vấn đề giữa Điều 8 với Điều 10 của Nghị định này. Bởi theo Điều 8, tổ chức hành nghề luật sư được khắc và sử dụng con dấu sau khi được cấp Giấy đăng ký hoạt động, bên cạnh đó, theo Điều 10, Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư cũng được khắc và sử dụng con dấu sau khi được cấp Giấy đăng ký hoạt động. Xem xét ngữ cảnh này, có thể hiểu tổ chức hành nghề luật sư theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư năm 2012 với Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 41 Luật Luật sư năm 2012 là tương đương nhau. Nghĩa là, Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sưcũng là tổ chức hành nghề luật sư. Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư năm 2012, Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư không phải là tổ chức hành nghề luật sư. Mặt khác, tham khảo quy định về con dấu của doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 33 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Liên hệ với những bất cập vừa nêu, theo tác giả, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu tháo gỡ quy định có tính bắt buộc nhưng không cần thiết về Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư, theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho người đứng đầu tổ chức hành nghề luật sư về việc quyết định lựa chọn số lượng con dấu của Chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư mà mình đăng ký thành lập. Bởi trên thực tế, không ít Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư cũng phải đăng ký việc khắc con dấu, sử dụng con dấu với cơ quan công an có thẩm quyền, cũng đăng ký mã số thuế,…, nhưng hầu như không sử dụng đến con dấu của Chi nhánh, nhất là trong điều kiện Ngân hàng nhà nước quy định chỉ cung cấp tài khoản phục vụ thanh toán cho tổ chức là pháp nhân (Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 26/12/2016 của Ngân hành nhà nước về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hành nhà nước Việt Nam, hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán). Mà theo đó, văn phòng luật sư không là tổ chức có tư cách pháp nhân, tuy theo quy định Luật Luật sư năm 2012, văn phòng luật sư được coi là doanh nghiệp tư nhân. Sự bất cập này xuất phát từ quy định về pháp nhân tại Điều 74 BLDS năm 2015, đối chiếu với các điều kiện cần và đủ quy định về pháp nhân, Văn phòng luật sư hoàn toàn không thỏa mãn các điều kiện để được công nhận là pháp nhân. Do vậy, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư số 32/2016/TT-NHNN, ngân hàng và các tổ chức tín dụng không mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân và ngừng cung cấp dịch vụ thanh toán (đóng tài khoản) sau 12 tháng, kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực (01/3/2017), nếu các tổ chức đó, trước đây có mở tài khoản thanh toán nhưng không hoàn thành việc chuyển đổi. Từ những vướng mắc đó cho thấy, chỉ với việc hoàn tất các thủ tục để kê khai thuế và nộp thuế thông qua hệ thống mạng hiện nay đã rất khó khăn cho các đối tượng là văn phòng luật sư (thuế, kho bạc yêu cầu phải mở tài khoản của tổ chức; ngân hàng và các tổ chức tín dụng không cung cấp dịch vụ thanh toán cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân). Đó là chưa kể đến trường hợp Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư cũng phải thực hiện đúng các quy trình bắt buộc về khai báo thuế và nộp thuế qua mạng, như một văn phòng luật sư, rõ ràng quá rườm rà về thủ tục, nhưng lại không cần thiết. Trong điều kiện hiện nay, rất nhiều tổ chức hành nghề luật sư không ủy quyền cho Chi nhánh của mình việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng (do Văn phòng luật sư không có tài khoản của tổ chức); không phát sinh nghĩa vụ về thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế quản lý (do là đơn vị phụ thuộc về hạch toán), thì việc bắt buộc Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư phải khắc con dấu riêng và quản lý con dấu của Chi nhánh theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 123/2013/NĐ-CP là không còn phù hợp nữa, cũng như buộc Chi nhánh phải đăng ký chữ ký số là hết sức phi lý, vì Chi nhánh của văn phòng luật sư hàng năm chỉ nộp một loại thuế duy nhất vào tháng 01, đó là thuế môn bài và cũng không phải thực hiện việc báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn hàng quý theo quy định tại Điều 27 Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ.